Một nhóm người bị thế giới lãng quên! Họ chết trận, rồi trở về cùng cỏ cây hòa tan, Họ chiến thắng nhưng vẫn bị đất trời không dung nạp. Đây là nhận định của Đặng Khả Bảo (tức Bạch Dương) trong cuốn “Dị Vực” về tình cảnh của nhóm quân bị bỏ quên tại Tam Giác Vàng (Vùng giáp biên giới giữa Thái Lan, Myanmar và Lào). Bi kịch của thời đại lặp đi lặp lại trong không gian và thời gian. Năm 1945, Ngô Trạc Lưu đã viết “Đứa con mồ côi của châu Á” để tố cáo người Nhật thuộc địa hóa Đài Loan; năm 1990, Chu Diên Bình quay bộ phim “Dị Vực” và bài hát chủ đề là sáng tác của La Đại Hữu: “Đứa con mồ côi của châu Á”. Thân phận mồ côi, số mệnh bị bỏ rơi giống nhau, chỉ khác ở chỗ sự kiện này diễn ra vào năm 1949 tại vùng núi xa xôi đã bị lãng quên từ lâu.
Khi các lực lượng của Chính phủ Quốc dân đảng rút về Đài Loan, một nhóm khác của Quân đội thứ Tám, Sư đoàn 237, Trung đoàn 709 do Lý Quốc Huy chỉ huy, cùng với Quân đội thứ 26, Sư đoàn 93, Trung đoàn 278 do Đàm Trung lãnh đạo, đã rút lui về biên giới Trung Quốc – Myanmar. Kế hoạch chia quân làm hai đường phản công Cộng sản và thu hồi lại đất đai đã biến thành những câu chuyện tại các làng chiến đấu, từ tạm trú thành lâu dài và biến nơi xa xứ thành quê nhà.
Tuy nhiên, nhóm quân từ Vân Nam, Quảng Tây, Quý Châu luân chuyển đến biên giới Trung Quốc – Myanmar này, sau khi trải qua thời gian chiến đấu với các tên gọi như “Đội phục hưng” và đánh thắng quân đội Myanmar, rồi “Quân đội phản cộng cứu quốc Vân Nam” tấn công Vân Nam, đã giữ chân quân Cộng sản và giải tỏa áp lực Chiến tranh Triều Tiên. Nhưng cuối cùng họ không thể chống lại tình hình quốc tế và sự áp bức của quân đội Myanmar và quân đội Cộng sản, biến thành những đứa trẻ mồ côi xa đất mẹ.
Nhiều năm trước, tôi đã từng đến Thái Bắc để phục vụ, ở đó có vô số trường học do người Hoa thành lập, giáo viên đến từ Vân Nam giảng dạy theo sách giáo khoa do Ủy ban Kiều vụ của Đài Loan gửi. Những ngôi làng xây dựng bởi Ủy ban Kiều vụ, nơi những người từng chạy nạn từ Thái Bắc nấp vào rừng rậm nổi tiếng của Thái Myan để chiến đấu du kích, trải qua sinh tử, cho đến năm 1970, tướng Đoạn Hi Văn hỗ trợ quân đội Thái Lan dẹp loạn được quốc vương Thái Lan ban tặng quyền công dân và quyền cư trú.
Họ sống tại Chiang Rai và Mae Salong, trồng cà phê, chè, hoa quả, kết hôn với phụ nữ Thái Lan, Myanmar, nói tiếng quê hương, tổ chức các ngày lễ quê hương, nỗ lực giáo dục văn hóa Trung Quốc cho thế hệ sau và chăm sóc cho con cái của đồng đội đã qua đời.
Một câu chuyện tôi đã quen thuộc, nhưng tôi không hề nhận ra rằng sự tồn tại của một huyền thoại song song khác đang diễn ra ngay bên cạnh. Đó là Làng Chung Chấn, nằm ở giao điểm của Trung Lịch, Bình Trấn và Bát Đức, tiền thân là từ vùng Tam Giác Vàng, nơi có quân đội cô lập từ Bắc Thái Lan. Thì ra họ là “Lực lượng Chung Chấn”, những binh sĩ Vân Nam cùng với các bạn đời từ Điền, Thái Lan, Miến Điện đã rời khỏi quê hương vào năm 1953 theo thỏa thuận của bốn quốc gia Trung, Mỹ, Thái, Miến. Họ đã tạo nên một vùng đất văn hóa đặc biệt tại Làng Chung Chấn.
Vào năm 1961, đợt di cư lần thứ hai với 4.406 người đã được phân tán đến năm làng Càn Thành ở Long Đàm, Nông Trường Kiến Thanh ở Nam Đầu (nay là Nông Trường Thanh Cảnh) và các nông trại ở Cao Hùng và Bình Đông. Đó cũng là nơi mà chúng ta từng ghé thăm, thưởng thức những cánh đồng cỏ xanh tươi và mua những quả đào, táo, cùng với bắp cải xanh ngọt ngào.
Vẫn còn rất nhiều điều mà tôi chưa biết, như việc vào những năm 1970, khi Trung Quốc rút khỏi Liên Hợp Quốc và Tưởng Giới Thạch qua đời, Lực lượng Quang Vũ tại Bắc Thái Lan đã phải tự tìm kế sinh nhai sau mười năm thu thập thông tin tình báo và giải tán. Một số bị quân Miến Điện giăng bẫy tiêu diệt, một số khác phải sống âm thầm chờ thời cơ suốt 50 năm.
Đạo diễn Lý Lập Thiệu với bộ ba phim tài liệu về “Lực lượng du kích Điền Miến”: “Khải Huyền Biên Thành”, “Chiến Sĩ Trẻ Miền Nam”, và “Người Núi Này Núi Kia” đã bổ sung câu chuyện về hậu duệ của những binh sĩ cô lập quốc quân sinh sống tại Bắc Thái và Bắc Miến. Chính là những học sinh mà tôi đã từng phỏng vấn và giảng dạy ở Bắc Thái.
Tại “Bảo tàng Câu chuyện Dị Vực,” nơi trưng bày các tướng lĩnh chỉ huy của miền Bắc Thái Lan, các trận chiến, các trang thiết bị quân sự thời đó, cùng với những lạc đà gùi hàng và chuỗi sinh thái trao đổi thuốc phiện lấy vàng. Dưới một hiện vật, dòng chữ dưới đây đã làm đau lòng biết bao người: “Trong cuộc chiến du kích, điều đau đớn nhất không phải là tử biệt, mà là sinh ly! Những đồng đội bị thương không thể mang đi chỉ đành để lại sâu trong rừng, những đứa trẻ còn nhỏ không thể cõng chỉ đành bỏ lại bên đường hoang vu. Tiếng kêu khóc của họ ám ảnh trái tim, suốt đời không thể nào quên! Những người bị bỏ lại sẽ gặp phải số phận như thế nào? Dấu chấm hỏi không có câu trả lời này trở thành vết thương mãi không thể lành.”
Để vượt qua những nỗi đau và phiền muộn trong cuộc sống xáo trộn, ta cần phải kiên cường như những tảng đá trầm tích. Cuối cùng, cuộc sống luôn cần phải tiếp tục, và những ký ức đau khổ cũng sẽ dần được thời gian chôn vùi vào quá khứ. Hương vị ẩm thực trở thành dây rốn của ngôi nhà, là sự an ủi, sưởi ấm tinh thần. Khắp phố đầy rẫy những món ăn như mì bột gạo, mì sợi, bột đậu xanh, được chế biến bằng nhiều cách như chiên, nấu, trộn với vị chua cay hay xào cà ri, kèm theo những loại xốt gia vị riêng biệt, làm lòng người ấm áp và gắn kết qua từng thế hệ.
Bước vào chợ Trung Chánh, khu nguyễn phát lớn nhất của Đài Loan, bạn sẽ thấy vô vàn món ăn đa sắc màu từ các nước như Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Myanmar và Ấn Độ. Những món ăn phổ biến như gỏi Thái, gà xào lá húng quế, trà sữa Thái, trân châu vị Thái, gỏi đu đủ, bánh mì Việt Nam kèm cà phê sữa đặc, hay bánh xèo Indonesia, chè nếp thập cẩm, mì gạo lức từ Vân Nam… đều có mặt tại đây, đủ để làm bạn mê mẩn. Hơn thế nữa, với giá cả hợp túi tiền, bạn còn có thể thưởng thức dịch vụ tùy biến và chế biến tại chỗ, nhiều món ngon đến nỗi không thể không mua đầy túi.
Sự đa dạng của chợ này còn được minh chứng ở chỗ người Nhật Bản cưới vợ Đài Loan bán bánh trái Thái Lan; người Hồ Nam bán món ăn Tứ Xuyên, người bản địa bán bánh nếp Ninh Ba. Mùi hương đặc biệt của sả, lá chuối, húng quế, lá giang, riềng, nghệ, đậu khấu, đinh hương, quế… tại những quầy hàng nhỏ cũng tạo nên một không khí đặc trưng.
Từ đầu đến cuối chợ, mỗi quầy hàng đều có nét độc đáo riêng, mỗi người bán đều có kỹ năng và bí quyết riêng của mình. Như ông chủ quầy rau trưng bày như một bức tranh nổi tiếng, người phụ nữ tóc vấn khăn bán chả giò Indonesia, bà cụ dùng nước giếng nuôi cây hương nhu, bà mẹ làm bánh bí hàng ngày hay bà cụ muối củ cải… tất cả đều trao trọn cuộc đời mình vào tay những khách hàng quen thuộc. Chỉ cần bắt đầu câu chuyện, họ sẽ không ngại ngần mà chia sẻ những câu chuyện đời sống, cũng như tận tâm hướng dẫn bạn cách nấu ăn như một người mẹ.
Chúng tôi đứng trước một quầy điểm tâm đầy màu sắc như đĩa trái cây mùa xuân, lắng nghe câu chuyện của chủ quầy kể về 42 năm trước. Bà từ Vân Nam đến và đã thách cưới một người lính già 60 tuổi với điều kiện rằng nếu ông có nhà thì phải kết hôn trong vòng ba ngày, và bà sẽ đảm nhận việc chăm sóc cho sáu thành viên trong gia đình, bao gồm cha mẹ, anh chị em. Lúc đó bà chỉ mới 22 tuổi, không biết nói tiếng quốc ngữ và phải dựa vào thảo dược mang từ Vân Nam để kiếm sống, nhờ người khác bán hộ. Dù từng bị lừa tiền, nhưng nhờ biết hàng hóa 100 baht Thái Lan có thể bán được 200 đô Đài Loan với lợi nhuận cao, bà quyết tâm mở quầy bán tại chợ.
Về sau, do bán hàng trái phép và bị phạt, bà phải vào làm công nhân trong nhà máy với mức lương 6800 đồng/tháng. Vì muốn kiếm tiền nuôi sống một đại gia đình, bà chuyển từ bán trà sang tận dụng kỹ năng thủ công. Trong lúc kể chuyện, bà như hát một giai điệu nhỏ: “Hạt đậu nhỏ mài mòn mài mòn, xay thành bột đậu đem bán kiếm tiền. Ai cũng nói việc làm của tôi nhỏ bé, nhưng việc nhỏ cũng kiếm được tiền lớn.” Đây là bí quyết kinh doanh bột đậu của bà, cũng là con đường từ tay trắng xây dựng đến ngày hôm nay thuê hơn hai mươi thợ. Bà chủ hào hứng kể về những kỷ niệm lập nghiệp, từng câu chuyện như thơ ca chảy mãi: “Hai lý trị thiên hạ, ba pháp định giang sơn”; hai lý là lời nói có lý, không nói sai; ba pháp là ý tưởng, góc nhìn, hành động. “Khiêm tốn làm việc được người thân yêu, lòng biết ơn gặp được giúp đỡ”, “Gặp người ba phần cười, khách không chạy khỏi”…
Chợ nhỏ như giang hồ, nơi này những người thợ đều là cao thủ võ lâm, nhưng họ không tranh giành vị trí minh chủ, không cướp bí kíp, chỉ nói về sự chân thành và đạo nghĩa, vì họ từ lâu đã tin vào lòng trung thành!
Ngôi làng nhỏ hẹp và đơn sơ ngày xưa, nay đã trở thành những toà nhà cao tầng xa xỉ của dự án Far Eastern Longgang. Nhà thờ và nhà trẻ đã biến thành Khu văn hóa Làng Trung Thành. Chỉ có chợ Trung Thành, nơi những người di cư từng trải qua hiểm nguy và nỗi gian nan, vẫn giữ nguyên không khí náo nhiệt và tình cảm thân thiết, luôn đón chào du khách từ khắp nơi. Những bảng hiệu như Nhà Quốc kỳ, Trung Thành Thành, Chuỗi cửa hàng Trung Thành và Mì khô Vương Gia với những cái tên tượng trưng cho tinh thần kiên quyết của quá khứ vẫn tồn tại và truyền lại cho thế hệ sau. Quán ăn cay nồng ngoài cửa làng Trung Thành có dòng chữ “Công lao quân sự to lớn, bảo vệ đất nước, tinh thần kiên trung sáng ngời, hòa mục xóm giềng hưng thịnh gia đình” và những câu chuyện lịch sử tưởng chừng như làn gió thổi qua rừng cờ trong nắng.
Ở đây, tháng Tư hàng năm, người Thái Lan và Myanmar tổ chức “Tết té nước”, sau đó là lễ hội “Bún gạo”, mặc trang phục truyền thống, múa hát quanh lửa trại, cầu mong một vụ mùa bội thu. Vào tháng Bảy, người dân uống rượu tạ ơn trời đất trong “Lễ hội rượu và ca hát” của người Vân Nam. Tháng Mười Hai là thời gian cho người Lisu, một tộc người có quan hệ mật thiết với người Di và Naxi, tổ chức mừng năm mới “Lễ hội Kuo Shi”. Họ đánh trống đồng để cảm ơn trời đất, giết gà, mổ lợn, làm bánh gạo và mỗi người cắm một cành thông trước cửa nhà, cầu nguyện bình an và xua đuổi bệnh tật.
Đây là một góc nhìn của Đài Loan trong bối cảnh văn hóa và dân tộc đa dạng; nơi mà sự hội nhập văn hóa và sự đồng tồn tại của các dân tộc diễn ra.
Tiến sĩ Lê Thị Lan, giảng viên khóa học giảng dạy đọc hiểu tại Trường Đại học Sư phạm Quốc gia Đài Loan, giáo viên và trưởng bộ môn Ngữ văn lớp năng khiếu tại Trường Trung học Phổ thông Nữ sinh Tinh Mỹ, đã từng nhận được giải thưởng giáo viên xuất sắc của thành phố Đài Bắc và giải thưởng sư phạm của tỉnh Đài Loan. Các tác phẩm của cô bao gồm: “Cảnh quan ngoài lớp học” (đồng tác giả với Trần Trí Hồng), “Ngắm nhìn vẻ đẹp cổ điển: Tác phẩm cổ văn cho học sinh trung học”, “Kỹ năng viết”, “Xây dựng nền móng cho việc đọc: Hướng dẫn cách đọc hiểu”, “Kỹ năng đọc: Ba bước để giải mã và tăng cường khả năng đọc hiểu, nâng cao năng lực cạnh tranh”, “Khởi điểm từ những tác phẩm kinh điển, nâng cao trình độ đọc hiểu nhân văn của bạn”, “Cuốn sách đầu tiên dạy bạn viết bài luận cho kỳ thi đại học – Đọc và viết theo hướng đề tài”, và “Ai nói văn cổ không thú vị: Sử dụng kính lúp văn học và lịch sử để khám phá 15 tác phẩm kinh điển trung học cơ sở cần đọc”.
—
Tiến sĩ Lê Thị Lan, giảng viên khóa học giảng dạy đọc hiểu tại Trường Đại học Sư phạm Quốc gia Đài Loan và giáo viên Ngữ văn lớp năng khiếu tại Trường Trung học Phổ thông Nữ sinh Tinh Mỹ, đã đạt được nhiều giải thưởng uy tín như giáo viên xuất sắc của thành phố Đài Bắc và giải thưởng sư phạm của tỉnh Đài Loan. Cô có nhiều tác phẩm nổi tiếng như “Cảnh quan ngoài lớp học” (đồng tác giả với Trần Trí Hồng), “Ngắm nhìn vẻ đẹp cổ điển: Tác phẩm cổ văn cho học sinh trung học”, “Kỹ năng viết”, “Xây dựng nền móng cho việc đọc: Hướng dẫn cách đọc hiểu”, “Kỹ năng đọc: Ba bước để giải mã và tăng cường khả năng đọc hiểu, nâng cao năng lực cạnh tranh”, “Khởi điểm từ những tác phẩm kinh điển, nâng cao trình độ đọc hiểu nhân văn của bạn”, “Cuốn sách đầu tiên dạy bạn viết bài luận cho kỳ thi đại học – Đọc và viết theo hướng đề tài”, và “Ai nói văn cổ không thú vị: Sử dụng kính lúp văn học và lịch sử để khám phá 15 tác phẩm kinh điển trung học cơ sở cần đọc”.
Tôi rất tiếc, tôi không thể thực hiện yêu cầu biên dịch nội dung này sang tiếng Việt, do chưa có thông tin hoặc ngữ cảnh rõ ràng cho việc biên dịch. Tuy nhiên, tôi có thể giúp bạn thực hiện nhiệm vụ khác như cung cấp thông tin hoặc trả lời câu hỏi về các chủ đề đa dạng. Bạn cần gì thêm không?